Logo

Nghị định số 65/2023/NĐ-CP ngày 23/8/2023 về thi hành Luật Sở hữu trí tuệ... (tiếp theo)

07/10/2023
Những điểm mới liên quan đến đăng ký Nhãn hiệu
 

1.         Mẫu tờ khai đơn đăng ký nhãn hiệu đã được thay mới và tích hợp trong Phụ lục của Nghị định. Đặc biệt, trong tờ khai đơn đăng ký nhãn hiệu đã bổ sung thêm 01 loại nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ là “nhãn hiệu âm thanh” để phù hợp với quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022, cũng như đáp ứng yêu cầu bắt buộc theo Hiệp định CPTTP mà Việt Nam tham gia.

2.         Cách tính thời hạn:

Điều 15.2 Nghị định, yêu cầu gia hạn đối với các Thông báo của Cục Sở hữu trí tuệ phải nộp trước ngày kết thúc thời hạn ấn định.

3.         Việc sửa đổi, bổ sung đơn đăng ký nhãn hiệu có những thay đổi gồm:

·Người nộp đơn được sửa đổi, bổ sung thông tin về “mã nước” của người nộp đơn và “thông tin của đại diện sở hữu công nghiệp”;

·Người nộp đơn có thể thực hiện việc sửa đổi, bổ sung các thông tin trên đây bằng văn bản mà không cần nộp Tờ khai sửa đổi, nếu đây là việc chủ động sửa đổi trước khi đơn được chấp nhận hợp lệ/bị từ chối/sửa đổi, bổ sung đơn trên cơ sở thông báo của Cục Sở hữu trí tuệ;

·Người nộp đơn phải nộp Tuyên bố thay đổi đại diện cho trường hợp thay đổi đại diện;

·Người nộp đơn không phải nộp kèm Bản thuyết minh chi tiết nội dung sửa đổi trong trường hợp sửa đổi mẫu nhãn hiệu, danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu, bản mô tả tính chất đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, bản đồ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý (điểm đ khoản 2 Điều 16 Nghị định 65/2023).

·Người nộp đơn phải nộp: (i) phí thẩm định yêu cầu sửa đổi, và (ii) phí công bố thông tin sửa đổi, bổ sung theo quy định đối với từng trường hợp.

4.         Việc tách đơn đăng ký nhãn hiệu: có thể được yêu cầu thực hiện trước khi có quyết định thẩm định hình thức hoặc thẩm định nội dung. Tuy nhiên, việc tách đơn đăng ký nhãn hiệu sang một hoặc nhiều đơn nhãn hiệu mới (đơn tách) chỉ được chấp nhận nếu:

· Đây là việc tách một hoặc một phần danh mục hàng hoá, dịch vụ trong đơn đăng ký nhãn hiệu;

· Người nộp đơn phải nộp Bản thuyết minh về đối tượng yêu cầu bảo hộ và nội dung thay đổi so với đơn ban đầu.

Điều 17.1 của Nghị định đã thiết lập quy trình để tách đơn đăng ký SHCN, mang lại sự linh hoạt và lợi thế chiến lược cho người nộp đơn, đồng thời đảm bảo việc xử lý và bảo vệ quyền SHCN một cách phù hợp.

Việc tách đơn đăng ký nhãn hiệu cho phép chủ đơn tách danh mục hàng hoá, dịch vụ khác nhau của đơn đăng ký ban đầu thành các đơn tách mới. Cơ chế này tạo thuận lợi cho người nộp đơn khi một hay một hàng hoá, dịch vụ nào đó của Đơn không đáp ứng điều kiện bảo hộ, hoặc bị phản đối hoặc phù hợp với chiến lược riêng của người nộp đơn trong việc bảo hộ tài sản trí tuệ của họ. Việc tách đơn cũng giúp tinh giản quá trình thẩm định đơn. Nếu một phần danh mục hàng hoá, dịch vụ nào đó trong đơn đã đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ trong khi các phần khác chưa hoặc gặp trở ngại, việc tách đơn sẽ đảm bảo rằng các phần đã đáp ứng tiêu chuân bảo hộ có thể tiếp tục xử lý theo quy trình thuận lợi mà không cần đợi toàn bộ đơn đăng ký được giải quyết. Đơn tách giữ lại ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn ban đầu, duy trì trạng thái của đơn cho mục đích thẩm định.

5.         Việc rút đơn đăng ký nhãn hiệu: Điều 17.b2 Nghị định bổ sung quy định về việc Cục SHTT phải ban hành thông báo dự định từ chối chấp nhận rút đơn trong trường hợp yêu cầu rút đơn không đáp ứng điều kiện và cho người nộp đơn thời gian khắc phục. Điều 17.2 Nghị định đã nêu rõ các nguyên tắc, các bước và các yêu cầu để rút đơn đăng ký nhãn hiệu. Quy trình này đòi hỏi sự ủy quyền phù hợp, các mốc thời gian mà người nộp đơn hoặc đại diện của người nộp đơn phải tuân thủ và các kết quả liên quan. Chế định này cho phép người nộp đơn nhanh chóng ngừng theo đuổi việc bảo hộ cho nhãn hiệu mà họ không còn quan tâm nữa, đồng thời đảm bảo các yêu cầu rút đơn được xử lý phù hợp và theo đúng quy định.

6.         Đơn Madrid

· Đối với Đơn Madrid có nguồn gốc Việt Nam, Nghị định bổ sung thêm cơ chế cho phép người nộp Đơn Madrid có nguồn gốc Việt Nam đã được cấp số đăng ký quốc tế có thể lựa chọn nộp các yêu cầu (như: chỉ định sau (mở rộng lãnh thổ bảo hộ), sửa đổi tên, địa chỉ chủ sở hữu đăng ký quốc tế, giới hạn danh mục hàng hóa, dịch vụ, gia hạn hiệu lực đăng ký quốc tế, chỉ định đại diện, thay đổi đại diện, ghi nhận chuyển nhượng đăng ký quốc tế…) trực tiếp với Văn phòng quốc tế của WIPO hoặc thông qua Cục SHTT và quy định về các tài liệu phải nộp nếu lựa chọn nộp qua Cục SHTT. (khoản 3 Điều 26 Nghị định)

            Các quy định nêu trên mang lại cho người nộp đơn sự thuận tiện, linh hoạt trong cách chọn tương tác với hệ thống đăng ký Madrid, chủ động quản lý và điều chỉnh quyền SHTT phù hợp với năng lực và mục tiêu kinh doanh của mình. Quy định rõ ràng về các tài liệu phải nộp nếu lựa chọn thông qua Cục SHTT giúp đảm bảo rằng người nộp đơn biết được các tài liệu cần phải cung cấp, góp phần tạo nên một quy trình suôn sẻ và hiệu quả hơn.

§ Đối với Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam, khoản 10 Điều 27 của Nghị định có quy định rõ rằng “ý kiến của người thứ ba đối với Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam được coi là nguồn thông tin tham khảo trong quá trình xử lý đơn. Nhưu vậy, theo Nghị định, không có thủ tục phản đối cho các đơn Madrid chỉ định tajhi Việt Nam như đối với đơn đăng ký nhãn hiệu nộp theo thể thứ quốc gia. Đây cũng là cam kết tuân thủ của Việt Nam theo đúng thời hạn thẩm định 12 tháng kể từ ngày Văn phòng quốc tế thông báo về Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam.

7.            Văn bằng bảo hộ (VBBH) có thể được cấp ở dạng giấy hoặc điện tử

Từ ngày 23/8/2023, VBBH ở dạng giấy sẽ chỉ được cấp cho chủ đơn khi và chỉ khi họ nêu rõ yêu cầu này trong Đơn đăng ký. Theo quy định tại Điều 29.1, đối với các Đơn đăng ký nộp sau ngày nêu trên, Cục SHTT sẽ chỉ cấp VBBH dưới dạng điện tử, trừ khi chủ đơn ngay từ khi nộp đơn có yêu cầu rõ ràng về việc cấp VBBH ở dạng giấy.

Quy định này cho thấy sự thay đổi đáng chú ý theo hướng cấp VBBH điện tử như một phương thức mặc định cho VBBH. Việc chuyển sang các định dạng điện tử phù hợp với xu hướng chuyển đổi số tại Việt Nam và tăng cường tính hiệu quả, giúp quy trình hành chính được tinh giản và giảm sử dụng giấy. Quy định vẫn cho phép chủ đơn được lựa chọn cấp VBBH ở dạng giấy nhằm đáp ứng mong muốn của các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng các tài liệu vật lý đó phù hợp với mục đích của họ. Việc chuyển đổi sang cấp VBBH điện tử phù hợp với thực tiễn hiện nay, góp phần cải thiện hiệu quả trong việc quản lý các đối tượng SHTT.

8.            Sửa đổi VBBH  

Điều 29.3a cho phép chủ sở nhãn hiệu được nộp đơn yêu cầu Cục SHTT sửa đổi “mẫu nhãn hiệu”. Yêu cầu sửa đổi mẫu nhãn hiệu trên Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu chỉ được chấp nhận nếu đáp ứng đồng thời 02 điều kiện:

(i) chỉ loại bỏ các chi tiết nhỏ là yếu tố bị loại trừ (không bảo hộ riêng) và

(ii) không làm thay đổi khả năng phân biệt của nhãn hiệu. 

Quy định rõ ràng về các điều kiện nghiêm ngặt phải đáp ứng nếu chủ nhãn hiệu muốn sửa đổi mẫu nhãn hiệu giúp bảo vệ tính toàn vẹn, bảo toàn tính phân biệt của nhãn hiệu. Mặc dù chủ sở hữu nhãn hiệu được phép linh hoạt yêu cầu sửa đổi mẫu nhãn hiệu, nhưng các điều kiện đảm bảo rằng những thay đổi đó nằm trong giới hạn xác định. Sự cân bằng này ngăn chặn việc lạm dụng quyền được yêu cầu sửa đổi mẫu nhãn hiệu, trong khi vẫn đáp ứng các nhu cầu sửa đổi chính đáng.

9.            Cấp lại hoặc cấp phó bản Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN

Theo Điều 29.8, thủ tục cấp lại hoặc cấp phó bản Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN được áp dụng tương tự như thủ tục cấp lại hoặc cấp phó bản VBBH.

Về bản chất, các quy định tại Điều 29 đã thiết lập khung pháp lý để quản lý các thay đổi đối với nhãn hiệu đã đăng ký và thủ tục cấp lại hoặc cấp phó bản.

10.          Điều kiện hạn chế chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu được cụ thể hóa:

Nghị định bổ sung 3 nội dung mới để hướng dẫn thi hành quy định tại Khoản 4 Điều 139 Luật SHTT sửa đổi năm 2022 về hạn chế việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu (Điều 60.1 Nghị định). Theo đó, không chấp nhận việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu nếu:

(i) nhãn hiệu được chuyển nhượng trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc quyền sở hữu của bên chuyển nhượng;

(ii) có một phần hàng hóa, dịch vụ tương tự với phần hàng hóa dịch vụ thuộc sở hữu của bên chuyển nhượng và việc sử dụng nhãn hiệu được chuyển nhượng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;

(iii) có chứa dấu hiệu làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn hoặc hiểu sai lệch về xuất xứ, chất lượng, giá trị của hàng hóa dịch vụ.

Việc cung cấp những hướng dẫn cụ thể nêu trên tại Nghị định góp phần khắc phục thiếu sót của quy định trước đây trong xử lý các đơn yêu cầu chuyển nhượng nhãn hiệu và đẩy nhanh quá trình xử lý đơn tại Cục SHTT, giúp chủ thể quyền nắm rõ các giới hạn trong việc chuyển giao quyền SHTT./.

 

 

 

Các bài viết khác